Động kinh hay còn được gọi là giật kinh phong là một bệnh mãn tính với các dấu hiệu đặc trưng như các cơn co giật, cơn co cứng và mất ý thức tạm thời.
Động kinh là gì?
Sự bất thường trong não bộ dẫn tới sự kích thích đồng thời một nhóm các tế bào thần kinh của vỏ não, gây ra sự phóng điện đột ngột và không thể kiểm soát là nguyên nhân gây động kinh. Theo bác sĩ giảng viên Cao đẳng Y dược Sài Gòn đây là bệnh mãn tính. Những triệu chứng có thể khác nhau nếu kích thích vỏ não ở các vùng khác nhau. Không chỉ bao gồm các cơn co giật, các cơn vắng ý thức đột ngột, co cứng chân tay cũng là biểu hiện của bệnh động kinh.
Có nên dùng thuốc điều trị động kinh trong thai kỳ?
Nguy cơ bị sảy thai, đẻ non cao hơn do những chấn thương vùng bụng trong cơn động kinh và gia tăng tỷ lệ thai chết lưu ở những bà mẹ bị động kinh. Trẻ có nguy cơ bị chậm phát triển trí tuệ và các cơn co giật giống động kinh ở thế hệ con cháu tăng lên gấp đôi nếu mẹ bị động kinh. Đây là những vấn đề đáng ngại với mẹ bầu.
Nếu không được điều trị, mẹ mang thai bị động kinh có thể phải đối mặt với những trường hợp xấu sau đây: bệnh động kinh không hề thuyên giảm, thậm chí là nặng hơn; bệnh động kinh có thể khó điều trị hơn, đáp ứng kém với thuốc do hiện tượng gián đoạn điều trị gây ra; thai kỳ không an toàn để lại dư chấn động kinh ở những đứa trẻ sau sinh và thậm chí ở những thế hệ con cháu của chúng. Điều quan trọng nhất đối với những trường hợp này chính là phải tiếp tục dùng thuốc.
Sẽ có những mặt lợi rõ ràng khi tiếp tục uống thuốc điều trị để khống chế bệnh động kinh và những hiệu ứng bắc cầu tới thai kỳ cho mẹ. Tuy nhiên, đây không phải là phương pháp đảm bảo an toàn tuyệt đối cho thai nhi bởi chính biện pháp can thiệp thuốc trong thai kỳ cũng chứa đựng trong đó các yếu tố nguy cơ.
Thuốc chống động kinh có khả năng gây quái thai và tử vong thai nhi. Theo một số quan sát cho thấy, tất cả thuốc chống động kinh đều làm quái thai và tử vong thai nhi gấp 2-3 lần so với thông thường. Khuyết tật bẩm sinh hay dị dạng có thể gặp ở mọi bộ phận, nhưng thường thấy những biến chứng này ở mặt, chân tay và cột sống. Phổ biến là tình trạng sứt môi và hở hàm ếch.
Ở các bà mẹ bình thường, các khuyết tật bẩm sinh này ở mức 2-3%, nhưng với mẹ phải sử dụng thuốc chống động kinh thì có thể lên tới 4-5%. Thậm chí, người ta còn thấy nó làm gia tăng tỷ lệ quái thai lên tới 20% nếu dùng thuốc khi quan sát một nhóm bà mẹ mang thai có nguy cơ cao quái thai dị dạng.
Bên cạnh các khuyết tật trên mặt, thuốc chống động kinh còn gây thay đổi trên chân tay của đứa trẻ mới sinh ra như ngón tay, ngón chân ngắn tũn, thậm chí còn bị dính liền vào nhau.
Một tỷ lệ nhỏ trẻ em bị khuyết tật ống sống do thuốc chống động kinh, đặc biệt là những bà mẹ được sử dụng valproate trong điều trị. Mẹ dùng một liệu trình điều trị đa thuốc kết hợp cũng có thể làm tăng nguy cơ mắc khuyết tật này.
Đối với trẻ em được sinh ra từ những bà mẹ điều trị động kinh có thể có những rối loạn về đông máu, đứa trẻ sinh ra có nguy cơ bị rối loạn khả năng cầm máu và đông máu khi bà mẹ mang thai sử dụng phenobarbital hay những thuốc chống động kinh khác để điều trị.
Thiếu vitamin K khiến máu chảy ra không thể cầm lại được, độ bền thành mạch máu bị suy yếu. Nguyên nhân gây ra thiếu hụt vitamin K ở những em bé này là bởi thuốc chống động kinh. Rối loạn đông máu có thể kéo dài tới 1 tháng tuổi thậm chí là lâu hơn nữa, tới lúc 1 tuổi thì mới có thể trở về bình thường.
Điều trị bệnh động kinh trong thai kỳ
Điều trị bệnh động kinh ở phụ nữ mang thai nhằm mục đích kéo dài thời gian không lên cơn co giật, theo đó sẽ làm giảm ảnh hưởng của cơn động kinh đối với thai nhi và hạn chế tác dụng gây quái thai của thuốc chống động kinh.
Trước tiên, bác sĩ cần phải thông báo và giải thích rõ cho người mẹ tương lai hiểu tình trạng bệnh hiện tại và những nguy cơ mà bản thân có thể gặp trong suốt thời kỳ mang thai để họ có thể yên tâm hợp tác với thầy thuốc trong việc điều trị. Nếu có thể người thầy thuốc nên chuyển sang điều trị chỉ bằng một loại thuốc và phải kiểm soát nồng độ thuốc trong máu người mẹ.
Trong vòng hai tháng đầu của thai kỳ bắt buộc phải điều trị bổ sung bằng acid folic, đồng thời phải điều trị bổ sung vitamin K1 kể từ tuần thứ 36 (tháng thứ 9) của thai kỳ và cần tiêm bắp vitamin K cho tất cả trẻ sơ sinh để đề phòng hội chứng chảy máu ở trẻ sơ sinh do ảnh hưởng của các thuốc chống động kinh mà người mẹ dùng như carbamazepin, phenobarbital, phenytoin.
Ngoài ra, cần theo dõi chặt chẽ quá trình phát triển của thai nhi, nhất là trong vòng 3 tháng đầu, phải định lượng alpha fetoprotein bằng xét nghiệm nước ối khi thai được 4 tháng đối với bệnh nhân điều trị bằng thuốc nhóm valproat . Cần lưu ý là hầu hết các thuốc có thể đi từ huyết thanh người mẹ sang tuyến sữa và do vậy có thể sang được trẻ được nuôi bằng sữa mẹ.
So với lượng thuốc đi qua rau thai trong thời kỳ mang thai, lượng thuốc truyền qua sữa ít hơn nhiều. Nồng độ thuốc trong huyết thanh người mẹ, mức độ thuốc chuyển vào sữa và lượng sữa đứa trẻ bú là các yếu tố quyết định lượng thuốc đứa trẻ phải tiếp xúc qua sữa mẹ. Ngoài ra, lượng thuốc tiếp xúc với trẻ còn phụ thuộc vào sự hấp thu của đứa trẻ, sự phân bố của thuốc, quá trình chuyển hoá và đào thải thuốc ở đứa trẻ.
Chỉ có một lượng nhỏ thuốc được truyền qua sữa mẹ và nồng độ thuốc trong huyết thanh trẻ nhìn chung thấp đến mức các tác dụng dược lý thường không xảy ra đối với thuốc nhóm phenytoin (sodanton), carbamazepine (tegretol), oxcarbamazepine (trileptal), valproate (depakin).
Đối với ethosuximide (sucxilep) và lamotrigine (lamictal) nồng độ thuốc trong huyết thanh trẻ có thể đạt đến mức làm các tác dụng dược lý xuất hiện, khi mẹ sử dụng ethosuximide (sucxilep) và lamotrigine (lamictal). Tuy nhiên, cho đến nay các tác dụng có hại của thuốc kháng động kinh kể trên ở những trẻ bú mẹ vẫn chưa được xác định rõ ràng.
Một số loại thuốc có thể tích lũy trong cơ thể trẻ bú mẹ làm trẻ buồn ngủ và bú kém đi, chẳng hạn như sử dụng nhóm thuốc phenobarbital (gardenal) và chất chuyển hóa của primidone (cũng là phenobarbital), benzodiazepam (seduxen), do đó đối với phụ nữ cho con bú nên theo dõi tác dụng phụ của thuốc ở trẻ nếu như trẻ ngủ nhiều hoặc bú kém đi thì phải chuyển sang loại thuốc khác khi dùng phenobarbital, primidone, benzodiazepin.
Cũng theo bác sĩ giảng viên Cao đẳng Y Dược TPHCM khi có thai đôi khi làm kiểm soát co giật trở nên khó khăn hơn nếu mẹ thường xuyên căng thẳng và mất ngủ. Việc chăm sóc trẻ sơ sinh cần có sự sự quan tâm và thận trọng đặc biệt trong gia đình. Trong những tuần đầu tiên ở nhà, các bà mẹ bị động kinh cần có sự hỗ trợ của người thân, nhất là với những trường hợp nhạy cảm với mất ngủ, cơn có giật có thể xuất hiện. Cần thực hiện việc cho bé bú trên sàn nhà để tránh ngã gây chấn thương trẻ và cần có một người khác cùng tham gia khi tắm cho trẻ.
Một điểm quan trọng mà bạn cần lưu ý là khi có thai, phụ nữ bị động kinh cần được khám thai định kỳ như bình thường, ngoài ra, để phát hiện sớm các dị dạng ống thần kinh nhằm chỉ định chấm dứt thai nghén trước khi thai quá to, thai phụ cần được siêu âm vào tháng thứ 4. Bên cạnh đó, việc sinh nở cần được thực hiện ở những cơ sở sản khoa được trang bị tốt nhằm hạn chế tối đa các nguy cơ co giật trong khi sinh và nguy cơ tử vong cao của trẻ sơ sinh.